Tạ tạo nên truyền
thống tốt đẹp đến ngày nay. Phu nhân của người là bà Cao Thị Khánh hiệu là An Lạc,
con gái đầu Ông Non thuộc dòng họ Cao (Liễn Thọ).
Ngôn niệm:
“Hoa
làm Cao thị kết nguyền
Liền
sinh bốn cửa anh hiến nở hoa"
Thủy tổ Tạ Công Luyện mất vào thế
kỷ 16 (1510). Mộ của Ngài được táng ở Xứ Cồn Cao do quốc sứ lấy hướng mộ. Thời
Hồng Đức được miễn tô thuc an hưởng Thái Bình. Năm Nhâm Dần (1482) niên hiệu Hồng
Đức thứ 13 triều Lê lập hộ tịch lúc bấy giờ gọi là đốn diễn biệt sở tộc và bắt
dấu chịu tôn thuế, con cháu ngày càng đông vui, được triều Lê phong sắc "Bản
cảnh thành hoàng Phó sử Luyện Khê hầu dũng lược anh uy gia tăng dực bảo tồn
thân". Đến đời Tự Đức năm thứ 7 sắc phong "Bản cảnh Thành hoàng linh
phù chỉ thán" Đồng Khánh năm thứ 2 gia tăng "Dực bảo trung hưng tôn
thần". Đời các vua Thành Thái và Duy Tân cũng phong tặng thêm nhiều sác.
Để tỏ lòng biết ơn một vị thần có
công với nước, với dân, cụ Hiếu đã bỏ tiến ra xây Đình Nam vào năm Nhâm Dần
(1818) để hương khói cho tiến nhân.
Tương truyền rằng
trước đây khoa thi nào con cháu họ Tạ cũng đỗ đạt khá cao, nhưng riêng khoa thì
Tự Đức Nhân Thân (1872) thì đậu đạt thấp nên các ông tử và dân làng bàn định
chuyện khiêng đình lấy hướng địa lý mới, thế là
“Lúc bấy giờ đến vận
Trong dân sự thuận một bé
Rước quản huyện Hương Khê
Ngài ra ngài đóng đất
Ngài hạ là kinh ngài đóng đát"
Thấy dịa lý đóng
dật và lây hướng đình nhìn tháng vào núi Hai Vai. Vua Lê Thánh Tông tuấn du
phương Nam, đã làm bài thơ có tên “Lê Thuấn hoàng đế vịnh lương kiên sơn"
ca ngợi núi Hai Vai, một danh thăng thượng trưng cho khí phách cho ý chí, cho đạo
lý làm người dân lioau Diễn:
“Ông xuống chỉ đây ông lạ đời
Hay là ông xuống cốt trân chơi
Đừng cùng trời đất so gan đã
Bạn với nhân gian khác kiếp người
Nhật nguyệt đời văng soi trước mặt
Càn khôn một gánh nặng trên vai
Đâu ai có hỏi bao nhiêu tuổi
Rằng lọt lòng ra bười vô thời
Đằng sau đình là cánh đồng phì nhiều:
Rộc Tràng, đồng De, đồng Công, do tổ khai phá để con cháu din sau hạnh phúc
hơn.
Trích bài về khiêng đình