Chuyển đến nội dung chính

Bài Ca Dâng Tổ

 Tham luận Hội thảo khoa học về các dòng họ Hội văn hoá dân gian Nghệ An

BÀI CA DÂNG TỔ

Trống rằm gióng dã dồn tan

Đỉnh trầm khói toả, án hương rực đèn

Tưởng nghe tiếng vọng linh thiêng 

Tưởng mỡ hình bóng Tổ tiên năm nào 

Nhớ người mũ phượng áo bào 

Đồn điền phó sứ, vua trao bình quyền 

Khẩn điền địa, cấp quân lương 

Bình chiêm thắng lợi, muôn phương thái hoà 

Trên vì nước, dưới vì nhà 

Khẩn hoang được phép lo xa sớm chiều 

Vùng Anh liệt, hạ Bán kiều 

Nội nu, rộc Trúc bao nhiêu tấc vàng 

Cò bay thẳng cánh dọc ngang 

Bốn trăm mẫu đất, điền trang mở đầu 

Công vì nước, Tước phong Hầu 

Đời dời con cháu ghi sâu cội nguồn 

Xưa nay hoang vắng bãi cồn 

giờ đây rộn rã xóm thôn cuốc cày 

Ba nguyên (1) miễn thuế từ đây 

Nhà nhà no ẩm, tháng ngày yên ninh. 

Bao công lao, bấy nghĩa tình 

Chung vì nghĩa nước, riêng tỉnh cháu con

Trăm năm bia đá thì mòn 

Ngàn năm gương Tổ, trăng tròn đêm xuân 

Công Người lập Họ, chiêu dân 

Công Người con cháu, nhớ ơn đời đời 

Liễn khê Hầu, Tước phong Người 

Công ơn Thuỷ Tổ, sáng đời cháu con 

Các Tiên liệt, dòng Tổ tôn 

Ba đời kế tiếp. đều nên Bá, Hầu

Đôn Điền ba kỳ nguyên sau 121

Thành biệt sở Tộc, buổi đầu miễn tô 

Đẹp lòng Tiên Tổ khai cơ

Tên thôn (3) đổi mới người xưa thoả lòng 

Năm Kỷ Dậu, đời Gia Long 

Đồn điền tên đổi nhớ công bậc hiển

Thôn Lạc Sở, xã Bút Điển 

Sở Điền là gốc, tư nguyên ẩm hà 

Lạc văn hoa, bút văn khoa 

Gốc Điền bền vững, Bút hoa nở chổi Sở 

Điền ghi nhớ công người 

Ra tay khai phá đời đời cháu con 

Lạc cảnh đẹp, bút tô son Lạc vui thôn xã, 

Bút thêm nghĩa tình 

Xóm làng no ấm văn minh Lạc đây, 

Bút đấy trở thành Chỉ lan (4) 

Nơi đây một xã một làng Nơi đây một 

Họ vững vàng đông tây 

Cũng là hiếm có xưa nay 

Cũng là phúc ấm cho rày cháu con 

Còn trời, còn nước, còn non 

Còn người, còn cảnh vẫn còn quê hương 

Bút Điền xã, Lạc Sở thôn 

Trống chầu đêm hội, không ngơi diễn chầu 

Công khai sáng bước đầu 

Thuỷ Tổ Mỡ đường đi kể thể lưu truyền 

Xứng danh hai chữ Bút Điền 

Đáp dồn nghĩa cá, khai nguyên mờ dòng 

Đất Lạc Sơ ngày đông con cháu 

Kết đoàn thêm Nguyễn, Võ, Trần, Trương

Lúa thêm tốt lúa, văn còn toả vẫn 

Hội ngày tế Tổ tưng bừng 

Trống chiêng rộn rã, cảnh càng xuân tươi

Trò vui mở khắp nơi nơi 

Đây chơi hội vật, đó chơi cướp cầu 

Cờ người xe pháo khoe màu

Tổ tôm, bài điểm đua nhau tranh tài 

Đu tiên nhè nhẹ khoan thai

Đu dây vun vút, vòng đai lưng trời 

Quả là Lạc Sở ai ơi

Dân cư thêm ở nhiều phương 

Như chim một tổ, một phường đông vui 

Danh khoa mở, mùa hoa đất Bút 

Đoạt giải nguyên vị nhất thí trường 

Tiếng tăm khắp nẻo muôn phương 

Danh thơm Cụ Bố (5), khoa trường còn ghi 

Đậu cử nhân đây thì Cụ Quản (6) 

Lại còn thêm mười tám Tú tài

Tam trường, sĩ tử chen vai 

Danh khôi đất Bút ai ai cũng tường 

Con cháu giữ cương thường đạo lý 

Sắc Vua ban “Hiếu hạnh khả phong" 

Tấm gương thiên cổ còn trông 

Ấy gương Cụ Hiếu xứng dòng nho gia 

Gốc đã vững, nếp nhà thêm vững 

Lòng thương dân lo lắng trăm phần 

Mưu phúc lợi, giúp nhân dân 

Tấm gương Cụ Hậu (7) như đêm trăng rằm 

Quên sao được tấm lòng trung dũng 

Cụ Đình Thành đánh Pháp xâm lăng 

Dạ ái quốc, chí anh hùng 

Giữ dòng máu đỏ, con Rồng cháu Tiên 

Sao kể hết bao gương sáng chói 

Truyền thống lưu con cháu tiếp đường 

Hai kỳ kháng chiến kiên cường 

Biết bao liệt sĩ hiên ngang bỏ mình 

Bao con cháu hy sinh vì nước 

Lập chiến công, vững bước đi lên 

Từng vang tên tuổi khắp miền 

Rạng danh đất Bút, vui thêm lòng người 

Công đức Tổ khôn lời kể xiết 

Trước Tôn vinh nguyện kết đồng tâm 

Nguyện theo bước của cha ông 

Dựng xây xứ sở, non sông mạnh giàu 

Củi đầu ngưỡng mộ ơn sâu 


Tạ Khắc Chưởng

Đời thứ 15

 

Ghi chú: (1) Ba thập kỷ. (2) Ba thế kỷ.(3) Làng. (4) Cô chỉ lan. (5) Cụ Bố chính Tạ hữu Khẻ đậu Giải nguyên. (6)Cụ Tạ Khắc Quân đậu cử nhân trị Phư. (7) Cụ Tạ Khác Nho - hiến nướng cho làng làm ruộng Hậu, Khi mắt lăng cúng giỗ gọi là “Giỗ Hàu. Cụ được phong Thương Băng Thần nên gọi là Cụ Hậu

Bài đăng phổ biến từ blog này

Nhân Dân Diễn Cát Đón Chào Bàng Di Tích Lịch Sử Văn Hoá Đền Thờ Mộ Thành Hoàng Tạ Công Luyện

  Nhân Dân Diễn Cát Đón Chào Bàng Di Tích Lịch Sử Văn Hoá Đền Thờ Mộ Thành Hoàng Tạ Công Luyện   Những ngày đầu xuân Nhâm Ngọ (2002) nhân dân Diễn Cát đang náo nức đón chào bằng di tích lịch sử văn hoá “Đền thờ và Mộ Tạ Công Luyện",   Theo dòng lịch sử trên 5 thế kỷ Tưởng công Khâm mệnh Phó sứ Luyện Khê hầu Thành hoàng Tạ Công Luyện đã lập đồn điền biệt sở tộc trên vùng đất Hoan Diễn (Nay là Diễn Châu). Theo gia phả, nguồn sử liệu, tài liệu chính sử cho biết: Ông Tạ Công Luyện tự là Đôn tĩnh, sinh vào khoảng 1430 gốc ở Độ Tích, Quảng Hoành, Quảng Đông, Trung Quốc theo gia đình đi tới Lâm ấp, Thuận Châu, nay thuộc tỉnh Quảng Bình. Ông xuất thân từ dòng dõi quý tộc, lớn lên trong thờ Lê Cực thịnh được giáo dục theo lễ giáo phong kiến ngay từ tuổi thiểu thời đã bộc lộ trí thông minh, chăm lo đèn sách, dùi mài kinh sử, còn thường xuyên luyện tập võ nghệ, nghiên cứu binh thư chờ kỳ thi đem bảng vàng về gia tộc.   Khi Tạ Công Luyện khôn lớn bước vào ngưỡng cửa của ...

Sơ lược lịch sử và phát triển

  LỊCH SỬ VÀ NHÂN VẬT Quá trình lịch sử phát triển của nhân loại qua các thời kỳ, việc di cư tự nhiên theo bản năng sinh tồn của các dòng người từ vùng này đến vùng kia là điều tất yếu. Các bộ tộc trong đó có bộ tộc họ Tạ của người Bách Việt sinh sống dọc theo châu thổ sông Hồng và di cư rải rác khắp các vùng rộng lớn của Bách Việt. Vùng lãnh thổ Bách Việt: Phía Đông giáp Nam Hải (Biển Đông) Phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên TQ ngày nay) Phía Bắc tới Hồ Động Đình (Hồ Nam TQ ngày nay) Phía Nam tới Hồ Tôn Tĩnh (Vương quốc Chăm-Pa cổ – Nghệ An – Hà Tĩnh của Việt Nam ngày nay) Đây là địa giới hành chính nhà nước đầu tiên ở kỷ Hồng Bàng của cư dân Bách Việt. Trải qua những diễn biến trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, nền chính trị, bộ máy quản lý nhà nước và địa giới hành chính tới nay đã thay đổi nhiều lần… Họ Tạ Việt Nam Là một dòng họ hình thành và phát triển từ thời tiền sử – Họ Tạ là một bộ phận của tộc người Bách Việt từ Kỷ Hồng Bàng, cư dân sinh sống ở khắp các vùng trên lãn...