DIỄN VĂN
LỄ HỘI UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN VÀ KHÁNH THÀNH CÔNG TRÌNH DI
TÍCH LỊCH SỬ VĂN HOÁ ĐẾN THỜ VÀ MỘ TẠ CÔNG LUYỆN
Kính thưa: Toàn thể nhân dân và con cháu
dòng họ Tạ Đại Tôn
Trong không khí mừng Đảng quang vinh, mừng xuân Giáp Thân
năm 2004, lễ hội uống nước nhớ nguồn kỷ niệm 574 năm ngày sinh tướng công khâm
mệnh luyện khê hấu Tạ Công Luyện và khánh thành các hạng mục công trình khu di
tích lịch sử văn hoá đến thờ và một Tạ Công Luyện. Thay mặt đảng uỷ, HĐND,
UBND, UB MTTQ xã Diễn Cát tôi kính chúc sức khoẻ tới quý vị đại biểu, các vị
khách quý và toàn thể nhân dân lời chúc mừng năm mới hạnh phúc, an khang và thịnh
vượng
Kính thưa các
quý vị đại biểu ! Kính thưa toàn thể nhân dân !
Cách đây 535 năm. Tạ công luyện là một vị tướng thời Lê đã
có công lớn trong sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước ở thế kỷ thứ XV.
Trong kháng chiến chống xâm lược Chiêm Thành, ông là một vị
tướng trung thành, mưu lược, dũng cảm và đã lập công vang dội. Nổi bật nhất là
trận đánh chà bàn Quảng Ngãi ngày 1-3-1471, do tạ Công Luyện chỉ huy, tiêu diệt
300 tên. bắt sống tướng giặc Trà toàn và 3 vạn tù binh, giải phóng toàn bộ đất
đai gio Chiêm Thành xâm lược. Được vua Lê Thánh Tông phong" Tướng công
khán mệnh Liệt Khê Hầu". Giữ chức phó sứ đồn điền.
Khi đất nước được giả phóng Ông lại có công lớn trong việc
khai hoang lập ấp, phát triển đồn điền, xây dựng quê hương, góp phần to lớn vào
sự nghiệp xây dựng đất nước.
Ngày 5/4/1510 Tạ Công Luyện qua đời được triều định cho quốc
sư về tìm đất mai táng và cho lập đền thờ ông tại quê hương Lạc Sở Bút Điên,
nay là xóm 5 xã Diễn Cát - Huyện Diễn châu – Tỉnh Nghệ an. Triều đình bạn cho
ông " Thành Hoàng Tuấn lương dực bảo trung hưng tôn thần". Và liên tiếp
các triều đại sau vẫn có sắc phong cho ông để tưởng nhớ một vị thán đã có công
với dân, với nước. Như trong văn bia để lại có ghi " kính duy ngã thán tổ.
Lê Thánh Tông thời phụng sự bình chiêm, triệu ấp vụ tư. chí kim tứ bách hữu dư
tuế. lịch triêu phong tặng, hoa cón vinh bao dân. phong tục luân thanh mỹ
lương..."
do ông khai phá. Triều đình ban
cho ông: “Thành Hoàng Lương Dực bảo Trung Hưng Tôn thần”. Đồng thời sắc cho
nhân dân lập đền thờ ông.
Liên tiếp các triều đại sau vẫn
có sắc phong cho ông như: Đời tự Đức có sắc phong : “ Bản Cảnh Thánh Hòng linh
phủ Tôn thần”, triều Đồng Khánh truy tặng: “ Dực bảo trung Hưng Tôn Thần” và
các đời vua thành thái. Duy Tân, Khải định đều có sắc phong cho ông.
Công đức của Tạ Công Luyện trong
văn bia để lại có ghi rõ: "Le Thánh Tông Thần Hoàng Đế, Ông Đức Nhị Niên,
Bình Chiêm Thân, Tổ vị phó sứ, phong Luyện Khê hầu, liệt tại công thần, nhiệm tổng
sở chí, thiết tríđồn điền, duy ngã chí Hữu".
Đúng vậy, trong những trận chiến
đấu chống quân Chiêm Thành ở phía Nam lãnh thổ nước ta, Tạ Công Luyện là một võ
tướng được Vua Lê Thánh Tông tin tưởng giao chỉ huy một đội quân thiện chiến và
đảm nhiệm những hướng tiến công, những nhiệm vụ chiến đấu quan trọng. Đã xuất
quân là chiến thắng. Đặc biệt là trận Chà Bàn, trận đánh lịch sử ngày
01/3/1471, tiêu diệt 300 thủ cấp, bắt sóng tướng giặc và 3 vạn tù binh. Tạ Công
Luyện tỏ rõ là một vị tướng tài ba, trung thành, mưu lược và dũng cảm. Lúc nào
cũng đi đầu và lập công vang dội. Chính vì những đóng góp to lớn đó là Tạ Công
Luyện được vua Lê Thánh Tông phong: “Tướng công Khâm mệnh Luyện Khê hầu”: Là một
trên 11 vị tướng được phong tước hầu lúc bấy giờ.
Ngoài chiến công, đánh giặc Chiêm
Thành, Tạ Công Luyện còn có công lớn trong công cuộc khai hoang lập ấp, phát
triển đồn điền xây dựng quê hương, tạo nên một giai đoạn lịch sử đẹp đẽ, cuộc sống
phồn vinh. Khi ông mất được triều đình vua Lê cho Quốc sư về lấy đất an táng và
lập cho đền thờ tại quê hương Lạc sở - bút điến (nay là xóm 5, xã Diễn Cát huyện
Diễn châu, nghệ An).
Tạ Công Luyện đã đi vào lịch sử,
là một danh tướng với những công lao to lớn trong sự nghiệp đánh giặc và phát
triển đón điển xây dựng đất nước ở thế kỷ XV. Ông là niềm tự hào của Tổ tông, của
dòng họ, của quê hương và của đất nước ta.
Thời Lê Thánh Tông có 6 tước
Vương Công Hầu bá tử Nam. Các tước Vương công chỉ phong cho con cháu Hoàng Tộc
Tạ Công Luyện được phong tước hâu
một trong mười một tước hầu thời Lê Thánh Tông.
Người viết: Ta Quang Lộc